♟️ Kinh Rải Tâm Từ Tiếng Việt
8. Tropic Spa. 9. An Spa. 10. La Cochinchine Luxury Spa & Fitness. 1. Thẩm mỹ Thu Cúc Sài Gòn. Thẩm mỹ Thu Cúc Sài Gòn là chi nhánh chính thức của Thẩm mỹ Thu Cúc (trực thuộc Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc) - thương hiệu thẩm mỹ uy tín, danh tiếng suốt 20 năm qua trên toàn miền Bắc.
Tiếng Trung chuyên ngành Xây dựng: Từ vựng + Hội thoại. Để có thể làm nên các tòa nhà cao tầng, trường học, công trình,… không thể không nhắc tới ngành xây dựng. Nhằm cung cấp thêm kiến thức về lĩnh vực này cho độc giả, hôm nay THANHMAIHSK sẽ giới thiệu đến bạn
Theo báo Nezavisimaya Gazeta (Nga) ngày 18/10, Hội đồng Đối ngoại châu Âu đã quyết định thành lập Phái bộ hỗ trợ quân sự của EU tại Ukraine (EUMAM Ukraine). Đặc biệt, với sự giúp đỡ của phái bộ này, quân đội Ukraine sẽ được huấn luyện cách xử lý vũ khí do phương Tây
Mỗi ngày bạn học khoảng 50 từ (đến hôm sau rơi rớt còn 20 - 30 từ là vừa). Một ngày bắt đầu bằng việc ôn lại từ cũ và học thêm từ mới. Tích tiểu thành đại. 2. Khi gặp một từ mới, nếu không biết đọc, KHÔNG "đọc đại", phải tra từ điển, nếu có talking dictionary càng tốt.
Ở Việt Nam, Tập đoàn Yum! đã bán quyền kinh. doanh thương hiệu dưới hình thức độc quyền cho Công ty KFC Việt Nam, một liên doanh giữa. Việt Nam và Singapore, kinh doanh trong 25 năm còn Pizza Hut thì được nhượng quyền theo. hình thức độc quyền cho Công ty Pizza Hut Việt Nam là IFB
Nếu bạn thích việc làm tiếng Nhật, chắc chắn bạn biết tiếng Nhật khó để làm chủ, đặc biệt là khi nói đến việc sử dụng "keigo". Keigo là một từ thông dụng ở Nhật Bản và có nghĩa là ngôn ngữ danh dự là một cách thể hiện sự lịch sự, giải quyết tính ưu
[FULL PDF] [TÀI LIỆU CHUYÊN NGÀNH MAY] Từ Điển Tiếng Anh Chuyên Ngành Dệt May 197 trang 1. Khoa Công Nghệ May và Thời Trang 1 LỜI NGỎ Nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ của sinh viên khoa Công nghệ May và Thời trang, giúp các em dễ tiếp cận hơn với các tài liệu chuyên ngành từ nước ngoài, tập thể giảng viên khoa đã
Như thế, để tránh các thành kiến bộ phái, là trở về cội nguồn tâm: liên tục thấy tâm mình vô sở kiến (không có kiến nào khởi lên trong tâm, theo Kinh Nghĩa Túc, hay theo nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời), trong Kinh Kim Cang gọi là vô sở trụ (tâm không nơi để trụ), trong Kinh
Trong bài này chúng ta chỉ có hai phần : Từ Hán Việt và ý nghĩa của từ ấy trong tiếng Việt. Cần lưu ý Quý Vị độc giả: Một từ hán- việt có thể có một hay nhiều nghĩa. Ví dụ Từ MINH có thể có nghĩa là KÊU hay có nghĩa là SÁNG tuỳ theo cách viết chữ Hán của từ ấy. THIÊN: Trời ĐỊA: Đất CỬ: Cất TỒN: Còn TỬ: Con TÔN: Cháu LỤC: Sáu TAM: Ba GIA: Nhà
QM8wU. trong cuốn Tâm Từ – Tỳ Khưu Hộ Pháp Theo bài kinh Tâm Từ Mettāsutta Nguyên nhân của bài kinh Tâm Từ Một thuở nọ, ức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm 500 Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng – Kính bạch chư ại ức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có được cơ hội làm phước cúng dường bốn món vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới, nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỉ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng con. Chư Tỳ khưu xét thấy chỗ ở, con người, vật thực… thích hợp cho việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô cùng hoan hỉ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi đối với chư Tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực giới đức trong sạch của quý Ngài, làm cho nhóm chư thiên ngự trong lâu đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư Tỳ khưu này sẽ ở đây suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng “Những vị Tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai dám trở lại lâu đài của mình trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị ấy rời khỏi khu rừng núi này”. Rồi họ nhất trí với nhau rằng “Chúng ta nên hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, khiến cho các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa”. Thật vậy, chư Tỳ khưu đang tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, ban đêm nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư Tỳ khưu bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sanh bệnh hoạn, làm cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định. Một hôm, chư Tỳ khưu Tăng hội họp, vị ại ức trưởng nhóm hỏi chư Tỳ khưu rằng – Này chư pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng Nhưng bây giờ quý pháp đệ có thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, quý pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải không? Chư Tỳ khưu bạch rằng – Kính bạch Ngài ại ức, ban đêm, chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định, phát sanh tình trạng như vậy, bạch Ngài. Ngài ại ức trưởng nhóm dạy rằng – Này chư pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. ức Phật cho phép Tỳ khưu an cư nhập hạ hai kỳ 1- An cư nhập hạ đầu Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 ÂL. 2- An cư nhập hạ sau Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 ÂL. Vậy, chúng ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin phép Ngài an cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào? Tất cả chư Tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị ại ức trưởng nhóm, sửa soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, Ngài truyền dạy rằng – Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu “Trong mùa mưa, chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng”. Vậy, do nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ. Chư Tỳ khưu kính bạch ức Thế Tôn rõ những tai hoạ xảy ra do nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy, cho nên, chư Tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin ức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau tại một nơi chốn khác. Quán xét thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, ức Thế Tôn khuyên dạy rằng – Này chư Tỳ khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ; lần này, Như Lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta [5] là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục thiền định và làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, thích hợp đối với các con. ó là nguyên nhân mà ức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta kinh Tâm Từ này. Sau khi học tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của ức Thế Tôn, chư Tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư Tỳ khưu, nên vô cùng hoan hỉ hộ độ chư Tỳ khưu sống yên ổn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy, toàn thể chư Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh ạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư Tỳ khưu đều làm lễ Suddhipavāraṇā lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā đại lễ thỉnh mời thanh tịnh. Nội dung bài kinh Mettāsutta Kinh Tâm Từ Giai đoạn thứ nhất Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ Mettāpubbabhāgapaṭipadā. Hành giả là bậc Thiện trí thông minh sáng suốt mong muốn những sự lợi ích cõi người, cõi trời và cõi Niết Bàn. ối với những hành giả trú ngụ nơi rừng núi, muốn tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, ức Phật dạy những hành giả ấy, trước khi tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, cần phải nên thực hành đầy đủ 15 pháp hành gọi là Mettāpubbabhāgapaṭipadā Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ, đúng theo tinh thần cốt lõi của bài kinh Mettāsutta này. Những hành giả có trí tuệ sáng suốt mong muốn sự lợi ích cao thượng chứng ngộ Niết Bàn. ối với hành giả tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, trước tiên cần phải thực hành đầy đủ 15 pháp hành sau đó bắt đầu tiến hành đề mục niệm rải tâm từ như sau 1- Sakko là người có khả năng, nghĩa là có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tính chân thật, có sức khoẻ tốt, có sự tinh tấn không ngừng, trí tuệ có khả năng hiểu biết rõ về pháp học và pháp hành. 2- Uju là người ngay thẳng, chân thật, hành thiện pháp, không hề gian dối bằng thân, bằng khẩu. 3- Sahuju là người có tính tình trung thực, hành thiện pháp bằng ý nghĩ. 4- Suvaco là người dễ dạy, khuyên dạy thế nào, thì thực hành như thế ấy, không phải là người cứng đầu khó dạy. 5- Mudu là người nhu mì, tính hiền lành, thân hành động nhẹ nhàng mềm mỏng; khẩu nói lời êm dịu, dễ nghe; ý nghĩ những điều thiện, thương yêu, kính mến mọi người. 6- Anatimāni không ngã mạn, không tự cho mình hơn người hoặc bằng người hoặc thua người; đối với người lớn hơn mình, thì cung kính lễ phép; đối với người bằng mình, thì sống hoà nhã; đối với người nhỏ hơn mình, thì tận tình giúp đỡ. 7- Santussako là người biết tri túc trong của cải của mình. Tri túc trong của cải có 3 ý nghĩa – Hài lòng trong của cải mình đã có sẵn. – Hài lòng trong của cải của mình đang có được. – Hài lòng trong của cải dù tốt dù xấu tâm không coi trọng đồ tốt, không coi khinh đồ xấu. 8- Subharo là người dễ nuôi, người khác nuôi dưỡng như thế nào cũng hoan hỉ như thế ấy, không hề lựa chọn, phân biệt tốt xấu, ngon dở, nhiều ít, có không, 9- Appakicco là người ít công ít việc. ối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ ít công việc chừng nào tốt chừng ấy; vì ít công việc thì mới có nhiều thì giờ hành đạo. 10- Sallahuvutti là người có đời sống nhẹ nhàng; đi lại nhẹ nhàng, giống như con chim có đôi cánh để bay, có cái mỏ để kiếm ăn vừa đủ nuôi mạng trong ngày. Hành giả có đời sống nhẹ nhàng, đối với bậc xuất gia chỉ cần có 8 món vật dụng cần thiết hằng ngày, nhất là tam y mặc che thân, có cái bát để đi khất thực nuôi mạng trong ngày. 11- Santindriyo là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Khi mắt nhìn thấy sắc đẹp hoặc xấu; khi tai nghe âm thanh hay hoặc dở; khi mũi ngửi mùi thơm hoặc hôi; khi lưỡi nếm vị ngon hoặc dở; khi thân xúc giác cứng hoặc mềm, nóng hoặc lạnh khi tâm biết các đối tượng đáng hài lòng hoặc không đáng hài lòng, hành giả biết thu thúc lục căn thanh tịnh không để cho phiền não tham, sân, si phát sanh, chỉ có thiện tâm phát sanh mà thôi. 12- Nipako là người có trí tuệ thông minh sáng suốt, hiểu biết rõ sự lợi ích cao thượng Niết Bàn, chỉ mong thực hành pháp hành thiền tuệ để mau chóng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh ạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn giải thoát khổ sanh mà thôi. 13- Appagabbho là người có thân, khẩu, ý được trau dồi thuần đức. 14- Kulesu ananugiddho là người không quyến luyến trong các gia đình, để tránh tình trạng vui cùng vui với nhau, khổ cùng khổ với nhau. 15- Yena viññū pare upavadeyyuṃ, na ca khuddamācare kiñci những bậc Thiện trí chê trách điều ác nào, không làm điều ác ấy dù là rất nhỏ. ó là 15 pháp hành mà hành giả phải nên thực hành đầy đủ trước khi tiến hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh. Nếu hành giả thực hành không đầy đủ 15 pháp hành này trước, thì sự tiến hành đề mục niệm rải tâm từ không đạt được hiệu quả tốt trong pháp hành thiền định. Ví dụ Người nông dân trước khi gieo trồng hạt giống xuống đất, cần phải làm cỏ cho sạch, cày sâu bừa kỹ, dẫn nước vào, rải phân, đó là giai đoạn đầu phải làm đầy đủ, tiếp theo mới gieo giống, khi ấy hạt giống mới có đủ điều kiện nảy mầm thành cây rồi tăng trưởng… Nếu người nông dân làm không đầy đủ khâu đầu tiên, thì việc gieo trồng không đạt được hiệu quả tốt trong nông nghiệp. Giai đoạn thứ nhì Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ. Sau khi thực hành đầy đủ 15 pháp hành phần đầu của bài kinh Tâm Từ, đến giai đoạn thứ nhì, hành giả bắt đầu tiến hành niệm rải tâm từ theo tinh thần cốt lõi bài kinh Tâm Từ Mettāsutta có 2 phần I- Phần đầu Hành giả niệm rải tâm từ, cầu mong tất cả chúng sinh được sự tiến hoá, sự an lạc gọi là hitasukhāgamapatthanāmettā. Trong phần này, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có ba phương pháp 1- Sabbasaṅgāhikamettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp. 2- Dukabhāvanāmettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm. 3- Tikabhāvanāmettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. 1- Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp như thế nào? Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp gom vào nhau, không phân loại chúng sinh khác nhau. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, theo bài kệ trong bài kinh Tâm Từ như sau “Sukhino vā khemino hontu. Sabbe sattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường an lạc, được bình an vô sự; tâm thường được an lạc. Khai triển phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp này theo trạng thái có ba phương pháp tiến hành Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā sukhino hontu”. Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā khemino hontu”. Cầu mong tất cả chúng sinh, sống được bình an vô sự. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā sukhitattā bhavantu”. Cầu mong tất cả chúng sin,h tâm thường được an lạc. ó là phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp chung trong tam giới [6] gồm có 31 cõi, có 4 loại chúng sinh [7] không giới hạn, không ngoại trừ hạng chúng sinh nào. 2- Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm như thế nào? Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm gồm 4 loại như sau – Tasa thāvara duka chúng sinh còn sợ và không còn sợ. – Diṭṭhādiṭṭha duka chúng sinh được nhìn thấy và không được nhìn thấy. – Dūra santika duka chúng sinh ở xa và ở gần. – Bhūtā sambhavesi duka chúng sinh là bậc Thánh A-ra-hán và bậc Thánh Hữu Học, với hạng phàm nhân. Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm tuần tự như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh còn sợ hạng phàm nhân và bậc Thánh Hữu Học [8]; và hạng chúng sinh không còn sợ bậc Thánh A-ra-hán, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi diṭṭhā vā adiṭṭhā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh được nhìn thấy và hạng chúng sinh không được nhìn thấy, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi dūrā vā avidūrā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh ở nơi xa và hạng chúng sinh ở nơi gần, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi bhūtā vā sambhavesī vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh đã thành rồi bậc Thánh A-ra-hán; và hạng chúng sinh còn phải tái sanh kiếp sau bậc Thánh Hữu Học và hạng phàm nhân, thân tâm thường được an lạc. ó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm trong tam giới. 3- Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm như thế nào? Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm gồm 3 loại như sau Dīgha rassa majjhima tika chúng sinh có thân hình dài, ngắn, trung bình. Mahantāṇuka majjhima tika chúng sinh có thân hình to, nhỏ, trung bình. Thulāṇuka majjhima tika chúng sinh có thân hình mập, ốm, trung bình. Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có thân hình khác nhau phân chia làm 3 nhóm tuần tự như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi dīghā vā rassā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình dài, thân hình ngắn, thân hình trung bình không dài không ngắn, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi mahantā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình to lớn, thân hình nhỏ bé, thân hình trung bình không lớn không nhỏ, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nữa rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi thūlā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình mập mạp, thân hình gầy ốm, thân hình trung bình không mập không gầy, thân tâm thường được an lạc. ó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nhau trong tam giới. Tóm lại, ba phương pháp niệm rải tâm từ tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp; tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm; tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. Cả ba phương pháp này đều có tâm từ cầu mong cho tất cả chúng sinh trong tam giới, được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc gọi là hitasukhāgamapatthanāmettā niệm rải tâm từ cầu mong tất cả chúng sinh đều được sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài. II- Phần hai Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, cầu mong chúng sinh không có sự thoái hoá, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh gọi là ahitadukkhānagamapatthanāmettā. Phần này, niệm rải tâm từ trong những trường hợp như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Na paro paraṃ nikubbetha”. Cầu mong người này không nên lừa đảo làm khổ người kia. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Katthaci kiñci naṃ nātimaññetha”. Cầu mong người này không khinh thường người khác bất cứ nơi nào. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Byārosanā paṭighasaññā aññamaññassa dukkhaṃ na iccheyya”. Cầu mong chúng sinh đừng làm khổ lẫn nhau bằng thân hoặc bằng khẩu do tâm sân oán thù. ó là phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh cầu mong chúng sinh không có sự thoái hoá, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh, chỉ có sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc thường phát sanh đến tất cả chúng sinh mà thôi. Tâm từ như thế nào? Tâm từ là tình thương đối với tất cả chúng sinh như ức Phật dạy “Mātā niyaṃ puttaṃ, ekaputtaṃ āyusā anurakkhe yathā, evampi sabbabhūtesu aparimāṇaṃ mānasaṃ bhāvaye”. Ví như một từ mẫu thương yêu đứa con duy nhất, bà đặt trọn vẹn tình thương yêu của mình nơi đứa con ấy, giữ gìn, dưỡng dục đứa con yêu quý độc nhất bằng sanh mạng của mình như thế nào, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn cũng như thế ấy. “Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asam-bādhaṃ averaṃ asapattaṃ”. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến toàn thể thế giới chúng sinh hướng trên, 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên; hướng dưới 11 cõi dục giới; ở khoảng giữa 16 cõi trời sắc giới phạm thiên, với tâm từ trong thiện tâm không hẹp lượng, toả rộng khắp vô lượng vô biên, không có tâm sân oan trái là kẻ thù bên trong, không có kẻ thù bên ngoài. Do năng lực tâm từ vô lượng nên xoá bỏ được giới hạn ranh giới giữa các chúng sinh, giữa mình với tất cả chúng sinh đều mang tính chất đồng đẳng với nhau. Hành giả chứng đắc bậc thiền sắc giới với đề mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn. ề mục niệm rải tâm từ này có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền sắc giới,nhưng không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này luôn luôn cần có chi thiền lạc; còn đệ ngũ thiền sắc giới thì cần phải diệt chi thiền lạc thay bằng chi thiền xả. Do đó, đề mục niệm rải tâm từ không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới. “Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā, sayāno vā yāvatā’ssa vitamiddho, etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya. Idha etaṃ brahmaṃ vihāraṃ āhu”. Khi hành giả đang đứng hoặc đang đi hoặc đang ngồi hoặc đang nằm mà không buồn ngủ, khi ấy tâm an trú trong bậc thiền sắc giới với tâm từ vô lượng. ức Phật dạy “Hành giả có bậc thiền với tâm từ đó là cách sống cao thượng”. Tâm từ với thiền tuệ ề mục niệm rải tâm từ có đối tượng chúng sinh thuộc chế định pháp paññattidhamma, cho nên, khi hành giả tiến hành thiền định với đề mục này, chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc giới, nhưng chắc chắn không thể chứng đắc Thánh ạo – Thánh Quả và Niết Bàn được. Muốn chứng đắc Thánh ạo – Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả cần phải tiến hành thiền tuệ, có đối tượng danh pháp, sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp paramatthadhamma. Vì vậy, sau khi đã chứng đắc bậc thiền sắc giới nào rồi, hành giả cần phải thoát ra khỏi bậc thiền sắc giới ấy, dùng tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ. ối tượng của pháp hành thiền tuệ đó là tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy thuộc về danh pháp,và tâm thiền ấy phát sanh do nương nhờ sắc ý căn hadayavatthurūpa thuộc về sắc pháp. Hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh ạo – Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa. ức Phật dạy “Diṭṭhiñca anupagamma, sīlavā dassanena sampanno”. Bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến chấp ngã nơi ngũ uẩn nữa, bởi do Nhập Lưu Thánh ạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa; cho nên, bậc Thánh Nhập Lưu có giới đức hoàn toàn trong sạch có định và tuệ chưa hoàn toàn. Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh ạo – Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn; rồi Bất Lai Thánh ạo – Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tâm tham ái trong ngũ trần sắc, thanh, hương, vị, xúc ở cõi dục giới, chỉ còn tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới mà thôi. ức Phật dạy “Kāmesu vineyya gedhaṃ”. Bậc Thánh Nhất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong ngũ trần loại thô cõi dục giới,còn loại vi tế chưa diệt được; đến bậc Thánh Bất Lai mới có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong ngũ trần loại vi tế cõi dục giới không còn dư sót, song tâm tham ái trong cõi sắc giới và vô sắc giới chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai không tái sanh trở lại cõi dục giới, chỉ còn tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên và cõi vô sắc giới phạm thiên mà thôi. Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới không còn dư sót, sẽ tịch diệt Niết Bàn ngay kiếp hiện tại ấy, không còn tái sanh trở lại kiếp sau khác nữa, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. ức Phật dạy “Na hi jātuggabbhaseyyaṃ puna reti”. Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, đã diệt đoạn tuyệt tất cả tâm tham ái không còn dư sót rồi, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết Bàn, không còn tái sanh kiếp sau khác nữa, giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Giải thích xong bài kinh Tâm Từ. Nhận xét trước và sau bài kinh Tâm Từ Lần trước, chưa học và hành bài kinh Tâm Từ Mettāsutta, 500 chư Tỳ khưu vào trú ngụ tại khu rừng núi, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy khổ thân khổ tâm. Nhóm chư thiên ấy đã hoá ra những cảnh tượng rùng rợn, làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ phải từ bỏ khu rừng núi ấy trở về hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin phép an cư nhập hạ ở một nơi khác. Lần sau, học và hành bài kinh Tâm Từ này, 500 chư Tỳ khưu trở lại vào trú ngụ tại khu rừng núi cũ, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy thân tâm an lạc, mát mẻ do năng lực niệm rải tâm từ của chư Tỳ khưu; nhóm chư thiên ấy hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi ấy, thân tâm thường được an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới, và tiếp theo tiến hành thiền tuệ, tất cả 500 chư Tỳ khưu đều chứng đắc đến A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Năm trăm chư Tỳ khưu này là những bậc có giới đức trong sạch, có đầy đủ pháp hạnh ba la mật để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, nhưng thiếu pháp hành niệm rải tâm từ làm cho chư thiên mát mẻ, an lạc, nên chư thiên đã gây trở ngại cho việc tiến hành thiền tuệ của chư Tỳ khưu. Nhưng về sau, chư Tỳ khưu học và hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, làm cho chư thiên ở cội cây trong khu rừng núi ấy thân tâm được an lạc, mát mẻ; thay vì làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ như trước, thì chư thiên lại hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu an cư nhập hạ, thân tâm an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Bởi vậy cho nên, pháp hành niệm rải tâm từ là một pháp hành cần thiết hỗ trợ không những đối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, mà còn là pháp hành hỗ trợ cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh được thân tâm an lạc, mát mẻ trong tình thương, yêu quý mến lẫn nhau. -ooOoo- [1] Sinh vật vật có sự sống như tất cả chúng sinh, động vật, thực vật,… chúng có sự sanh, sự tăng trưởng, sự già, sự chết. [2] Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm, và tâm sở có 52 tâm sở; trong số tâm, tâm sở này không có tâm nào trực tiếp gọi là tâm từ. [3] Tịnh hảo tâm gồm có 59 hoặc 91 tâm. [4] Majjhimanikāya, Mūlapaṇṇāsa, Cuḷagosingasutta & Aṭṭhakathā. [5] Khuddakanikāya, bộ Suttanipāta, kinh Mettāsutta, toàn bài kinh xin xem ở phần sau. [6] Tam giới dục giới có 11 cõi, sắc giới có 16 cõi, vô sắc giới có 4 cõi. [7] 4 loại chúng sinh thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh. [8] Bậc Thánh Hữu Học có 3 hạng bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai.
kinh rải tâm từ tiếng việt